delacroix01
Eroge Addict
Lúc trước có romanize hộ Hòm cái này. Tớ ko phải fan touhou, có điều thấy cái lyrics khá độc đáo với có nhiều điểm ngữ pháp đáng chú ý nên tớ làm 1 bài phân tích luôn (đã hỏi kỹ 1 advanced learner và 1 người Nhật trước khi phân tích).
Việc hạn chế hoặc ko sử dụng từ gốc Hán trong lời 1 bài hát tiếng Nhật thường có tác dụng giúp lời bài hát trở nên thi vị hơn, vì từ gốc Hán thường có sắc thái trang trọng hơn là từ thuần Nhật (về điểm này thì cả tiếng Việt cũng thế, mặc dù cách sử dụng trong thơ ca có khác).
Cần tránh nhầm lẫn dạng vừa nêu với dạng し trong tiếng Nhật hiện đại, chẳng hạn 伸ばし trong khổ cuối. Dạng này được gọi là 連用形 (ren'youkei / continuative form), còn 連用形 là gì thì xem ở đây:
http://en.wikipedia.org/wiki/Japanese_grammar#Stem_forms
http://www.jref.com/japan/language/renyoukei.shtml
Có 2 dạng động từ phủ định rất hay gặp trong các tác phẩm hư cấu là ず (chẳng hạn ở đây ta có 忘れず) và ぬ (vd 戻らぬ trong lời bài hát này). Dạng ぬ chính là dạng cổ điển của dạng ない và được gọi là 連体形 (rentaikei / attributive form), còn dạng ず được xếp vào loại 連用形 (ren'youkei / continuative form). Theo lý thuyết thì đây đều là 2 dạng cổ điển, tuy nhiên theo tớ quan sát thì dạng ず vẫn được sử dụng thường xuyên trong tiếng Nhật hiện đại (vd điển hình là 思わず), trong khi ぬ thì chủ yếu chỉ thấy ở các nhân vật sử dụng cổ ngữ, thành ngữ, tục ngữ hoặc lời bài hát (trừ mấy bài kiểu nhăng nhắng hoặc hiện đại ra).
Các động từ 違え行き, 振り返り, 起き cũng được xếp vào loại 連用形. Ở đây dạng này được sử dụng để nối vế trước với vế sau, chẳng hạn 遠い日の人々と違え行き và 詠われる生の霊となりても hợp thành 1 mệnh đề, hay 体を曲げてふと振り返り hợp với 砕けた月を仰ぎ見る thành 1 câu hoàn chỉnh.
なりて ở đoạn thứ 2 là dạng て cổ điển của động từ なる. Theo vài ví dụ tớ được cung cấp thì cách chia là chuyển âm tiết cuối của dạng từ điển về âm cột i và thêm て vào:
なる => なり => なりて (=なって)
欺く => 欺き => 欺きて (=欺いて)
使う => 使ひて (=使って) (cái này là trường hợp đặc biệt)
Nếu mở từ điển ra, ta sẽ thấy ふと có tới 3 cách viết kanji, tuy nhiên tất cả đều là 当て字 vì ふと thực chất là 1 từ thuần Nhật và cách viết chuẩn đối với từ này là viết bằng hiragana, ko phải kanji.
Ở khổ thứ 3 ta có cụm 集めれど là hình thức nối tắt của 集めたけれど.
Các động từ dạng 越え hay 楽しませ cũng được xếp vào loại 連用形 và cũng được dùng để nối câu. So với động từ dạng て thì dạng này kém chặt chẽ và thi vị hơn nên được sử dụng nhiều trong thơ ca.
美しき trong câu cuối bài là dạng cổ điển của 美しい. Nếu trong khi đọc 1 cái gì đó mà gặp 1 tính từ kết thúc bằng き (chẳng hạn 青き) thì cứ chuyển き thành い là ra dạng từ điển của tính từ đó ngay.
Tuy có sử dụng 1 số động tính từ dạng cổ điển nhưng về cơ bản lời bài hát vẫn là tiếng Nhật hiện đại. Bằng chứng rõ ràng nhất là ở đầu bài tác giả sử dụng こよい thay vì こよひ nhằm giúp người nghe có thể cảm thụ dù chưa hề học môn tiếng Nhật cổ điển.
Điểm đáng chú ý đầu tiên ở bài này là cách dùng từ. Nếu tinh ý 1 chút thì sẽ ko khó để nhận ra rằng toàn bộ từ trong lời bài hát là từ thuần Nhật. Ở đây chỉ có 1 từ có khả năng gây nhầm lẫn cho người học tiếng Nhật là 無垢. Từ này thoạt trông thì có vẻ là từ Hán-Nhật, tuy nhiên lại là 1 当て字 (dạng kết hợp các kanji có cách phát âm tương đương lại thành cách viết kanji cho 1 từ thuần Nhật vì 1 mục đích nào đó chứ về cơ bản thì nghĩa của cụm kanji không giống với nghĩa của từ đó).こよい風吹きぬける丘の上
杯に落ちた月を呑む
去りし人と見しあの月を
今までも忘れず
遠い日の人々と違え行き
詠われる生の霊(いのち)となりても
こよい我に並ぶ者なし
今はただひとりよ
体を曲げてふと振り返り
砕けた月を仰ぎ見る
欠片を拾い集めれど
戻らぬ息の風(いのち)よ
去りし友に捧ぐ杯
光さす無垢なる朝に起き
華やぐ栄えの昼を行き
闇の帳さす夜を越え
人はまた鬼と並ぶ
体を曲げてふと振り返り
ゆるりと体を戻すとき
視界の端に佇むは
小さな生の血(いのち)よ
去りし友に捧ぐ杯
並ぶ友と交わす杯
ちはやぶる神々を楽しませ
あめつちに遊ぶ者どもよ
畏れ忌まわれるこの鬼も
あはれとおもはせ
体を伸ばしふと眺めれば
にぎやかす声はそこかしこ
ならば今宵は良い月よ
美しき生の道(いのち)よ
Việc hạn chế hoặc ko sử dụng từ gốc Hán trong lời 1 bài hát tiếng Nhật thường có tác dụng giúp lời bài hát trở nên thi vị hơn, vì từ gốc Hán thường có sắc thái trang trọng hơn là từ thuần Nhật (về điểm này thì cả tiếng Việt cũng thế, mặc dù cách sử dụng trong thơ ca có khác).
Không giống động từ dạng し trong tiếng Nhật đương đại, 去りし và 見し ở đây là dạng quá khứ của 去る và 見る (thay vì 去った và 見た).去りし人と見しあの月を
Cần tránh nhầm lẫn dạng vừa nêu với dạng し trong tiếng Nhật hiện đại, chẳng hạn 伸ばし trong khổ cuối. Dạng này được gọi là 連用形 (ren'youkei / continuative form), còn 連用形 là gì thì xem ở đây:
http://en.wikipedia.org/wiki/Japanese_grammar#Stem_forms
http://www.jref.com/japan/language/renyoukei.shtml
Có 2 dạng động từ phủ định rất hay gặp trong các tác phẩm hư cấu là ず (chẳng hạn ở đây ta có 忘れず) và ぬ (vd 戻らぬ trong lời bài hát này). Dạng ぬ chính là dạng cổ điển của dạng ない và được gọi là 連体形 (rentaikei / attributive form), còn dạng ず được xếp vào loại 連用形 (ren'youkei / continuative form). Theo lý thuyết thì đây đều là 2 dạng cổ điển, tuy nhiên theo tớ quan sát thì dạng ず vẫn được sử dụng thường xuyên trong tiếng Nhật hiện đại (vd điển hình là 思わず), trong khi ぬ thì chủ yếu chỉ thấy ở các nhân vật sử dụng cổ ngữ, thành ngữ, tục ngữ hoặc lời bài hát (trừ mấy bài kiểu nhăng nhắng hoặc hiện đại ra).
Các động từ 違え行き, 振り返り, 起き cũng được xếp vào loại 連用形. Ở đây dạng này được sử dụng để nối vế trước với vế sau, chẳng hạn 遠い日の人々と違え行き và 詠われる生の霊となりても hợp thành 1 mệnh đề, hay 体を曲げてふと振り返り hợp với 砕けた月を仰ぎ見る thành 1 câu hoàn chỉnh.
なりて ở đoạn thứ 2 là dạng て cổ điển của động từ なる. Theo vài ví dụ tớ được cung cấp thì cách chia là chuyển âm tiết cuối của dạng từ điển về âm cột i và thêm て vào:
なる => なり => なりて (=なって)
欺く => 欺き => 欺きて (=欺いて)
使う => 使ひて (=使って) (cái này là trường hợp đặc biệt)
Nếu mở từ điển ra, ta sẽ thấy ふと có tới 3 cách viết kanji, tuy nhiên tất cả đều là 当て字 vì ふと thực chất là 1 từ thuần Nhật và cách viết chuẩn đối với từ này là viết bằng hiragana, ko phải kanji.
Ở khổ thứ 3 ta có cụm 集めれど là hình thức nối tắt của 集めたけれど.
1 trong mấy cái misconception của người học tiếng Nhật (trong đó có tớ trong 1 thời gian dài) là xem なる là dạng cổ điển của trợ từ な khi thấy nó đi sau 1 tính từ. Thực ra trong phần lớn trường hợp thì なる = である, chẳng hạn trong dòng tớ vừa quote.光さす無垢なる朝に起き
Các động từ dạng 越え hay 楽しませ cũng được xếp vào loại 連用形 và cũng được dùng để nối câu. So với động từ dạng て thì dạng này kém chặt chẽ và thi vị hơn nên được sử dụng nhiều trong thơ ca.
美しき trong câu cuối bài là dạng cổ điển của 美しい. Nếu trong khi đọc 1 cái gì đó mà gặp 1 tính từ kết thúc bằng き (chẳng hạn 青き) thì cứ chuyển き thành い là ra dạng từ điển của tính từ đó ngay.
Tuy có sử dụng 1 số động tính từ dạng cổ điển nhưng về cơ bản lời bài hát vẫn là tiếng Nhật hiện đại. Bằng chứng rõ ràng nhất là ở đầu bài tác giả sử dụng こよい thay vì こよひ nhằm giúp người nghe có thể cảm thụ dù chưa hề học môn tiếng Nhật cổ điển.