Oriddo.
Đó là từ mà tên cai ngục đã nói lúc trước. Về nguồn gốc, nó ám chỉ đến những nô lệ chèo thuyền trên tàu galley. Kể từ khi mà đám nô lệ hầu hết nai lưng bán sức trên những con tàu thương mại, thuật ngữ này hay được sử dụng trong môi trường làm việc khắc nghiệt và bạo tàn của họ. Tuy nhiên ở thời đại này, thay vì dùng sức chèo thì tàu thuyền đều đã được trang bị động cơ hơi nước với bánh xe guồng. ‘Oriddo’ giờ được dùng để gọi những phạm nhân đang thi hành bản án khổ sai của họ. Theo pháp luật, tất cả tù nhân đều phải đảm đương một công việc tay chân nào đó và không có ngoại lệ.
Họ thường phải làm những việc như: giết mổ động vật, xử lý phân và chất thải, đào khoáng sản hoặc đi khai hoang. Bởi vì sự khó khăn khổ ải của những công việc ấy, chẳng mấy ai được giao nhiệm vụ mà thực sự muốn làm. Cá biệt trong trường hợp án chung thân, tù nhân bị buộc phải lao động vất vả cho đến cuối đời mà không có sự tha bổng nào hết.
… Chiếc xẻng được cấp cho chàng trai có chiều dài ngắn hơn một mẩu bằng bề ngang ngón tay út so với cái mà cậu đã từng sử dụng trong quá khứ. Cán của nó làm từ một loại gỗ trơn cực kì khô và cứng, với thép chịu axit được sử dụng để làm phần lưỡi và tay cầm. Nhìn nó hoàn toàn mới toanh, cứ như thể được mang thẳng tới đây từ nhà máy vậy.
Đã ba ngày trôi qua kể từ khi chiếc xe hàng ấy mang cậu tới cái nghĩa trang công cộng này. Và ngoại trừ lúc chàng trai tên “oriddo số 5722” đi ngủ ra, còn thì cậu lại dùng cái xẻng đó hì hục đào hố.
Nơi ở của cậu là một sự đối lập hoàn toàn so với chất lượng của cái xẻng. Phía sau tòa dinh thự, cậu được cấp cho một chỗ trong cái chuồng ngựa mục nát để làm chỗ ngủ. Rơm được trải trên sàn thì cũ rích và bốc mùi. Mặc dù nơi này có vẻ như đã không còn nuôi con ngựa nào trong một thời gian rất dài, trên mỗi cây cột gỗ ngả màu vẫn còn vương lại mùi hôi thối đặc trưng của lũ vật nuôi.
Không lâu sau khi mặt trời mọc, ông già Daribedor và một lão bà cùng xuất hiện. Ngoại trừ quần áo, mái tóc, và cái mũi khoằm – thứ làm bà ta trông hệt như một mụ phù thuỷ già, thì nhìn họ thật chẳng khác gì nhau. Tuy nhiên, không như người đàn ông luôn tỏ ra lịch thiệp bằng những cử chỉ đúng mực kia, bà già này, với cái mặt mà có lẽ thà ngắm một con ngựa còn dễ chịu hơn, phun ra một tràng: “Dậy mau và làm việc của mày đi, thằng ranh con!”
Chàng trai đành nhét vào miệng mẩu bánh mì cứng nhắc cùng món súp đặc mặn chát, rồi đi thẳng sang khu nghĩa địa. Giữa ánh nắng chói chang, cậu gác lại sự khó chịu trong người và tiếp tục đào những cái mộ dành cho xác chết của kẻ nào đó trong tương lai.
Thật lòng mà nói, ngay cái lúc mà chiếc băng bịt mắt trên mặt cậu được gỡ ra… hay nói cách khác, lúc mà cậu nhận ra mình vừa được mang đến một bãi tha ma, chàng trai đã có một linh cảm mơ hồ rằng một số phận tương tự sẽ xảy ra với cậu. Nhưng dù sao thì công việc này cũng khá là phù hợp vì cậu vốn đã quen với nó rồi. Bởi đào hố, đào hào là công việc chính của cậu – một lính bộ binh.
Chàng trai thắc mắc không biết đã có bao nhiêu hiệp sĩ bị kéo khỏi tiền tuyến và trở thành những tên lính quèn. Sau cuộc cánh mạng công nghiệp, súng ống trở nên phố biến hơn khiến cho toàn bộ đám hiệp sĩ, thương sĩ và cung thủ đều thành ra vô dụng. Nhờ sản xuất hàng loạt mà giờ đây, mỗi người lính bộ binh đều được trang bị súng, cũng vì thế mà xuất hiện nhu cầu lớn trong việc bảo vệ cơ thể của họ khỏi những làn mưa đạn. Và để cho tiện thì chính những người lính ấy, với xẻng trong tay, họ dàn hàng ra vô tận và tiến hành đào nên những lằn đất khổng lồ. Đó cũng là cách mà cái tên “chuột chũi nơi chiến trường” được sinh ra.
Chàng trai nguyền rủa cái rễ cây to dày dưới chân mình, sau khi chỉ vừa mới đào được ra một cục đá với kích cỡ bằng cả cái đầu cậu. Cùng lúc, cậu thầm gửi tới bộ xương người vô danh kia một lời cầu nguyện.
Bất kể là hoang địa hay bình nguyên, là nơi bìa rừng hay đồng lúa mì vô chủ, tôi nguyện rằng những đồng đội Chuột chũi của mình, dù cho họ có ở đâu… ở bất kì đâu đi nữa… cầu nguyện rằng họ vẫn đang đào cùng tôi.
Trước đây, cậu đã từng rất hài lòng với chiếc xẻng quân dụng mình được cấp, nó cứ như thể đã nối dài cánh tay của cậu ra vậy. Cơ thể cậu vẫn còn ghi nhớ chiều dài của nó. Điều đó khiến cho cái xẻng mà lão già đưa cho cậu, với độ dài chỉ ngắn hơn một đoạn bằng bề rộng ngón tay út, cũng trở nên khó chịu không khác gì những vết phát ban nhiệt nổi lên dưới cái vòng cổ cậu đang đeo, hay những lọn tóc trên đỉnh đầu đang dần héo hon vì phơi nắng.
Cái hố này quá lớn nếu chỉ dành để chôn một người.
Tạm dừng một lúc nghỉ tay, chàng trai nhìn xuống thành quả của mình. Cậu đã đào một cái hố theo đúng yêu cầu được giao, nhưng dường như nó đủ to để nhét cả một ngôi nhà nhỏ.
“Nếu chôn vào đây một cái xác người được bó lại, thì thậm chí chẳng cần dùng tới một phần mười diện tích. Có lẽ họ đang tính dùng một cái quan tài siêu bự đây mà,” cậu lẩm nhẩm.
Hoặc là họ sẽ chôn vào cái hố này hàng tá thi thể, đúng với cái tên “Đại Nghĩa Địa” của nơi đây.
Sau mỗi trận chiến lớn hẳn sẽ có rất nhiều xác chết được mang tới… liệu có khi nào đó chính là lý do mà cậu phải ở đây không?
Mà, dù họ muốn dùng nó thế nào mình cũng chẳng quan tâm.
Có một thứ khác mà cậu phải suy nghĩ về nó, phải tìm ra nó.
Trong suốt ba ngày kể từ khi tới đây, điều duy nhất lởn vởn trong đầu cậu là tìm cách trốn thoát. Cũng thật kì lạ vì hình như chỉ có cậu là tù nhân duy nhất làm việc ở Đại Nghĩa Địa.
Có vẻ Daribedor – người canh giữ chàng trai, luôn để mắt tới cậu suốt 24 giờ trong ngày. Nhưng nếu một lúc nào đó lão ta bận việc đột xuất, khi ấy thì sẽ chẳng còn ai biết cậu ở chỗ nào, và cậu chỉ cần tìm cách ẩn nấp đâu đó và tự giải thoát mình khỏi cái trò đào mộ ngu ngốc này. Tuy nhiên, nếu thất bại thì cậu sẽ lãng phí toàn bộ phần đời còn lại của mình làm trâu ngựa dưới danh nghĩa thằng “oriddo số 5722”.
“Chuyện này không đùa được”, cậu tự nhủ hết lần này tới lần khác, tay vẫn đào đất không ngừng.
Tình cảnh này hoàn toàn không phải một trò đùa. Mình phải trốn thoát khỏi cái nơi u ám muộn phiền này…
So với đống xiềng xích và song sắt đã giam cầm cậu lúc ở phiên tòa, sự canh giữ lỏng lẻo ở Đại Nghĩa Địa quả là một cơ hội trời cho. Đầu tiên, cậu sẽ tìm cách lẻn khỏi đây. Sau đó ra đi với một cái tên mới, trở thành một người khác, và bắt đầu lại cuộc đời ở một nơi mà bọn quân đội hay cảnh sát không thể rờ tới được.
Trong khi làm việc quần quật và mải mê tính toán cách đào tẩu, ngày thứ ba ở nghĩa địa của chàng trai đã gần kết thúc. Dưới ánh sáng nhá nhem của mặt trời sắp lặn, nơi này trở nên đáng sợ hơn bao giờ hết, một nỗi sợ mơ hồ. Bên trong cái chuồng ngựa mục nát, gió lùa qua những vết nứt lạnh đến thấu xương. Chàng trai ngờ rằng chẳng một ai trong cái tòa biệt thự kia nghĩ tới việc đưa cho cậu một cái đèn dầu hay một cây nến. Vì thế mà mỗi khi trăng sao trên bầu trời bị mây mù che phủ, cái chuồng ngựa của cậu lại hoàn toàn chìm trong bóng tối. Cảm giác khi ấy giống hệt như lúc cậu đeo băng bịt mắt vậy.
Chẳng biết làm gì hơn, chàng trai kéo cao lên tấm mền đang đắp. Ngay từ đêm đầu tiên ở đây, cậu phải trằn trọc mãi mới ngủ được. Nếu phải thú nhận thì lý do thực sự khiến cậu khó ngủ là vì… sợ.
Những thứ như hồn ma không hề tồn tại. Cậu biết rõ điều đó.
Mặc dù vậy, giữa màn đêm dày đặc ở nơi không có ai khác ngoài chính cậu, với những tiếng cọt kẹt phát ra từ cái bản lề cũ nát cùng âm thanh rợn người của gió lùa qua kẽ nứt trên tường, cậu cảm tưởng như có ai đó đang đến gần mình.
Khi bật dậy và căng mắt nhìn, cậu có thể xác nhận rằng không có ai ở xung quanh cả. Tuy nhiên, cái cảm giác ấy cứ tiếp diễn hết lần này tới lần khác, khiến cho cậu nghi ngờ rằng liệu mình có thật sự không tin vào ma quỷ chăng.
Chà, ít nhất thì nơi này sẽ không bị quấy nhiễu bởi đám xác chết vẫn còn lưu luyến cõi trần.
Dù đã khiếp đảm đến như vậy trong suốt hai ngày, cuối cùng cậu nhận ra nỗi sợ của mình chẳng được gì ngoài việc tốn thời gian.
May mắn thay, vào đêm thứ ba thì bầu trời chẳng có lấy một gợn mây và mặt trăng được tha hồ mà tỏa sáng. Nó sáng đến nỗi cậu có thể nhìn thấy rõ cả đầu ngón chân. Quả là một đêm lý tưởng để ra ngoài đi dạo.
Chàng trai bước ra khỏi chiếc giường làm từ rơm phủ mền rách của mình. Khi cậu vừa đứng lên, con chó đen vẫn thường nằm dài trên đất ở trước cửa chuồng ngựa bèn nhìn theo.
“Tao chỉ đi tiểu thôi mà. Mày không ngủ sao?” Cậu nói, nhẹ nhàng vẫy tay. Thế rồi con chó rời khỏi chỗ nằm của nó và theo sát phía sau chàng trai.
Mặc dù trông hơi đáng sợ nhưng nó cũng là một con chó biết điều đấy chứ, có vẻ như nó hiểu được những gì mình nói.
Điều này nhắc cậu nhớ tới hai vấn đề chính của kế hoạch đào tẩu.
Đó là chiếc vòng bao quanh cổ cậu và… con chó này nữa.
Con chó đen mang tên “Dephen” luôn luôn dõi theo chàng trai, bất kể cậu có làm gì. Ngay cả khi không ở trong tầm nhìn của nó, cậu vẫn cảm thấy như thể con chó đang kiểm soát cậu. Vì vậy mà cho dù cậu có đi đến chỗ nào thì cuối cùng “Dephen” vẫn hiện diện đằng sau, một bước không rời.
“Đừng bao giờ nghĩ đến chuyện bỏ trốn nhé”, Daribedor đã nói với cậu như thế vào hôm đầu tiên. “Dephen đây là một người canh mộ tuyệt vời. Đồng thời cũng là một con chó săn có một không hai. Khứu giác và răng nanh của nó đã khiến Dephen trở thành một giám ngục vô song.”
Con chó này là kẻ canh giữ mình sao? Lúc đầu, cậu vẫn chưa bị thuyết phục hoàn toàn.
Nhưng suốt ba ngày nằm dưới sự canh gác của nó, cậu phải công nhận rằng con chó đã thực hiện nhiệm vụ của mình cực kì xuất sắc. Trong quá khứ xa xôi, loài người thường xuyên phải đối mặt với lũ chó săn, và rất khó để giành chiến thắng trước chúng mà không phải nhận vài vết thương. Chàng trai nghĩ đến việc bất ngờ tấn công con chó bằng chiếc xẻng của mình, liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu cậu thành công nhỉ? Nhưng có lẽ điều đó sẽ không xảy ra vì nó luôn nằm ngoài tầm đánh của cậu.
Nếu Dephen mất cảnh giác lúc nó được cho ăn thì tốt. Tuy vậy, con chó lại chắc chắn có thể định vị cậu qua mùi hương, mặc dù mỗi bữa cậu chỉ được ném cho vài mẩu bánh mì.
Sau khi giải quyết nhu cầu xong xuôi, cậu chưa trở về chuồng ngựa ngay. Thay vào đó, chàng trai bước đi trong vô định dọc theo hàng rào phía bên ngôi biệt thự. Cậu không định đi về hướng khu nghĩa địa. Ở nơi đó ngay cả tiếng lá cây xào xạc trong gió cũng làm cậu cảm thấy khó chịu.
Chắc chắn sẽ không có thứ gì kì quái xuất hiện vào ban đêm đâu nhỉ? Như kiểu một gã cụt chân đang đi hay gì đó tương tự thế.
Ngay cả khi cậu đã quyết định gác lại kế hoạch đào tẩu, biết được cái nghĩa địa này trông ra sao lúc không có ánh mặt trời cũng là điều cần thiết. Trong trường hợp bỏ trốn giữa đêm khuya, cậu sẽ phải đi xuyên qua khu rừng tăm tối vô danh bất kể là chạy theo hướng nào… mà như thế cũng đồng nghĩa với tự sát. Nếu giả sử mà cuốc bộ qua được cánh rừng, cậu cũng chưa chắc liệu mình có tới được thị trấn gần nhất hay không. Dù cho có tìm được vết lốp xe trên đất, ấy là nếu lạc quan mà nói, thì cậu vẫn còn phải đi theo con đường cái. Và để tới được con đường đó thì phải ra khỏi cái nghĩa trang này.
Thôi nào, làm gì có ma quỷ trên đời chứ. Mà khoan, sao mình phải sợ hãi như thế nhỉ? Còn hơn cả hồi trước lúc bị cái tháp pháo chĩa vào mặt.
Sau khi nghĩ vậy, chàng trai bước từng bước thận trọng như thể đang đeo băng bịt mắt vào trong bãi tha ma. Vô số những tấm bia mộ tắm mình trong ánh trăng, tạo ra một màu xanh sáng nổi bật giữa màn đêm. Nhưng cùng lúc, màu sắc thật sự của bia đá bị phong hóa lại khiến cậu nghĩ tới những bộ xương.
Chàng trai đã định bụng tìm hiểu đường đi lối rẽ trong đại nghĩa địa, nhưng tầm nhìn của cậu không thể xuyên qua nổi màn đêm sâu thẳm này. Thay vào đó, cậu bắt đầu cảm thấy cái nghĩa trang thật sự quá rộng lớn. Bốn phương tám hướng, nhìn đâu cũng chỉ thấy những nấm mồ nằm rải rác cùng khu rừng đen dày đặc ở phía xa.
Với đôi mắt bị che phủ hoàn toàn bởi bóng tối, chàng trai đã đi tới đây mà chẳng theo một hướng cụ thể nào. Kết quả là cậu không còn tìm được đường về cái chuồng ngựa của mình nữa. Cũng thật kì lạ, khi cái sự thật rằng con chó đen lạnh lùng kia vẫn luôn theo sau lại khiến cậu phần nào cảm thấy yên lòng.
“Cậu tù nhân, cho dù cậu có khó chịu với cai ngục của mình như thế nào, hãy cứ yên tâm rằng tên giám ngục – chó săn này sẽ luôn theo chân cậu.”
Chàng trai nghĩ về mấy lời lúc trước của Daribedor, bất giác nở một nụ cười cay đắng.
Đó, chẳng có gì cả đâu. Nơi này có lẽ hơi quái đản và thích hợp với lũ mê tín dị đoan, nhưng suy cho cùng thì ma quỷ là thứ chỉ có trong những câu truyện mà thôi.
Gió nổi lên, chàng trai vẫn bước đi giữa những ngôi mộ, tinh thần cậu bằng cách nào đó như được tiếp thêm dũng khí.
Nhưng không, cậu biết rõ rằng mình chỉ đang tự đánh lừa bản thân. Đằng sau gáy cậu, bên dưới cái vòng cổ, và ngay cả trên hai cánh tay đầy cơ bắp, cậu đang nổi da gà.
Thế này là quá đủ cho hôm nay rồi… Mình nên tiếp tục vào ngày mai…
Cứ mỗi bước đi, ý nghĩ ấy lại thoáng qua tâm trí cậu.
Đột nhiên, chàng trai nhận ra rằng mình đang đứng trước cái hố mà cậu vừa mới đào hôm trước. Từ vị trí của cậu, trông nó như một kiểu hầm chứa được xây dựng bên trong những hang động lớn. Ánh sáng trăng không thể chạm tới đáy hố, và bóng tối nhìn như một chất lỏng lắng đọng xuống dưới. Ở đây cũng không có dòng chữ nào được khắc trên bia đá, một ngôi mộ chẳng thuộc về ai.
Hôm đó, cậu đã thắc mắc liệu ai sẽ là người được chôn dưới cái hố này.
Giờ đây, câu hỏi về những gì sẽ xảy ra với cậu sau khi chết đi lại trào lên trong lồng ngực.
Nếu phạm phải một trong những quy tắc ở trại giam, cậu sẽ bị xử lý theo bộ luật hình sự. Nhưng không ai nói cho cậu biết điều gì sẽ tới nếu cậu chết ở đây. Giả dụ như, nếu cậu bỏ trốn thất bại và bị con chó đen kia ngoạm cổ đến chết, liệu sau đó xác cậu có được chôn ở nghĩa địa này không?
Điều này dường như là vô nghĩa đối với chàng trai, vì dù sao thì cũng chẳng có ai khóc thương cho cậu. Thêm vào đó, phiên tòa xét xử đã ra quyết định thu hồi cái tên của cậu, cái tên mà cậu được cha mình đặt cho. Vì thế nên chắc rằng nó sẽ không phải là thứ được viết trên bia mộ của cậu.
Những người đào mộ không có lấy một ngôi mộ cho riêng mình.
Ý nghĩ đầy mỉa mai ấy khiến cậu một lần nữa mỉm cười cay đắng. Nhưng cậu không biết mình có nên cảm thấy buồn rầu hay thất vọng vì điều đó hay không. Chỉ thấy một thứ cảm xúc mơ hồ, để lại trong tim cậu sự trống rỗng tựa bóng tối nơi đáy mộ sâu.
Bất chợt, chàng trai nghe thấy một âm thanh lạ lẫn trong làn gió vừa thổi tới. Tiếng gì đó nghe như quần áo xột xoạt… như là thứ gì đó đang di chuyển.
Mải lắng nghe âm thanh ấy, giờ cậu mới nhận ra rằng con chó đã biến mất tự lúc nào không hay.
Cuối cùng cũng được ở một mình, chàng trai sực nhớ ra hoàn cảnh lúc này của cậu. Và rồi như một người có tội đang cắn rứt lương tâm, cậu vội vàng kiểm tra xung quanh mình.
Hàng tá những ngôi mộ rải rác…
Cái hố khổng lồ dưới chân…
Khu rừng tối đen xạc xào…
Vầng trăng khuyết lồ lộ trên cao…
Và cũng chỉ vừa gọn trong tầm nhìn của cậu…
Vẫn còn một thứ nữa ở đây.
Ngoài mình ra, còn cái gì có thể ở trong bãi tha ma hẻo lánh này giữa đêm hôm khuya khoắt chứ?
Đầu óc cậu trở nên trống rỗng.
Chẳng rõ thứ đó là gì, nó hiện ra với dáng hình một người đang mặc chiếc áo khoác chùm đầu màu xanh hải quân sẫm tới gần như đen hẳn. Đuôi áo kéo dài tới tận bàn chân khẽ lay động trong gió.
Hồn ma. Ác quỷ. Vong linh… những câu chuyện kì dị kể về các thế lực siêu nhiên mà hồi nhỏ bị người lớn tiêm nhiễm, giờ quay trở lại ám ảnh cậu.
Chàng trai không thể nhìn thấy mặt của hắn bởi nó bị cái bóng của mũ trùm đầu che khuất. Nhưng cậu biết chắc thứ đó dù ít nhiều cũng đã nhận ra sự hiện diện của cậu. Nó đã đến rất gần.
Mình… có nên bỏ chạy không?
Chàng trai cảm thấy khó thở. Cậu vẫn đứng im, chỉ vì cơ thể lúc này đã trở nên bất tuân mệnh lệnh. Nỗi sợ hãi đã chiếm trọn lấy cậu, khiến cậu kinh hoàng tột độ và xóa sạch hoàn toàn tâm trí cậu. Đôi chân cậu đóng băng, như thể một người lính đang đứng trước trái lựu đạn đang bay tới. Cậu cảm thấy chóng mặt dữ dội, và chỗ đó thì giật giật liên hồi. Có lẽ do ông trời phù hộ mà bữa nay bàng quang của cậu trống rỗng, chứ nếu không thì…
Nhẹ nhàng lắc lư từ bên nọ sang bên kia, người đó đang tiến lại gần với một tốc độ khá chậm. Nhưng có thể chàng trai chẳng hề nhận thấy điều đó.
Mình đang… dần mất ý thức sao…
Một cảm giác thật kì lạ. Phải bỏ chạy – đó là điều duy nhất cậu có thể nghĩ tới. Cậu phải chạy trốn khỏi con ma này… khỏi cái nghĩa địa này. Mặc dù cảm thấy đôi chân mình như đã cắm rễ vào lòng đất, cậu vẫn dồn toàn bộ năng lượng xuống đôi chân và thúc giục chúng di chuyển
Khoảnh khắc tiếp theo, sức lực bị rút hết khỏi chân cậu, và với một cú giật mình, chàng trai trượt ngã. Nhưng không hiểu vì lý do gì đó mà quãng đường cậu rơi xuống mặt đất lại xa hơn bình thường.
Thật là chẳng có chuyện gì tốt lành xảy ra cả.
Giữa đêm khuya ở nơi trung tâm nghĩa địa, chàng trai đánh mất ý thức của mình.
Nhưng chỉ giây lát trước khi mọi thứ chìm vào bóng tối, bên trong cái mũ trùm đầu của sinh vật kia, cậu ngỡ mình vừa nhìn thấy một khuôn mặt trắng tinh khôi.
*****
… Ký ức xa nhất cậu còn nhớ là âm thanh Kiin.kiin rời rạc, phát ra từ đâu đó ở ngay cạnh bên căn phòng nhỏ của cậu. Lúc ấy cậu đang nhìn lên cái trần cũ kĩ vô cùng quen thuộc, trong chính căn nhà mình, ở thị trấn nơi cậu lớn lên.
Cố không làm mấy đứa em trai đang nằm ngủ bên cạnh thức giấc, chàng trai nhẹ nhàng trườn ra khỏi giường. Đặt chân xuống sàn, cậu nhận ra tầm mắt của mình ngắn hơn nhiều so với hiện tại… Cậu chỉ lờ mờ đoán được rằng đây là một giấc mơ về thời niên thiếu của mình.
Kiin… Kiin…
Chàng trai sớm nhận ra nguồn gốc của âm thanh đó. Người cha thợ xây của cậu đang vung từng nhát búa lên thanh đục.
Cậu nhìn đăm đăm vào cha mình, người đang còng lưng ngồi trên cái thang gấp nho nhỏ, dồn toàn bộ tâm trí và sức lực mà đục đẽo một tảng đá.
Thật sự thì cậu không còn nhớ lắm giọng nói của ông. Nhưng có một điều vẫn in rõ trong ký ức chàng trai, rằng cha cậu vốn là một người cứng đầu và trầm lặng. Ông ấy thực sự rất ít nói, giống như tảng đá vậy. Có lẽ khi mà người ta phải tiếp xúc với đá tảng hết ngày này qua ngày khác, trái tim và cơ thể họ cũng sẽ dần trở nên cứng nhắc như thế. Lòng bàn tay lem luốc của ông thì thô ráp chẳng khác gì da voi.
Rồi đến chiều cao của ông, so với chàng trai hiện tại thì chẳng hơn được chút nào. Thực ra giờ nghĩ lại, cậu mới thấy thật kì lạ khi một người cao lớn như mình lại được sinh ra bởi người đàn ông nhỏ bé ấy. Tuy nhiên, tận sâu trong tâm khảm, cha cậu vẫn luôn hiện lên với tầm vóc đủ lớn để khiến cậu ấn tượng mạnh mỗi khi nhìn vào cái thân hình rắn chắc và khỏe khoắn ấy.
Trong khi chàng trai vẫn lặng ngồi, mắt không dời tấm lưng của cha, ông quay đầu về phía cậu.
“XXXXX, không ngủ được à?” gọi tên chàng trai, ông hỏi.
Cậu không thể nhớ chính xác giọng nói ấy nghe như thế nào, có lẽ bởi đây là một giấc mơ. Giọng vừa rồi nhanh hơn so với cách cha cậu thường hay nói. Mặc dù vậy, chàng trai vẫn cảm thấy khuây khỏa trong lòng, chắc hẳn là vì cậu vừa được nghe cha mình gọi tên…
#
Từ khi nào mà mình lại bắt đầu mơ thấy cha nhỉ…, đang chìm trong giấc ngủ, cậu tù nhân nghĩ thầm.
Cậu vội vàng bật dậy. Nếu có thể, cậu phải sẵn sàng cho công việc hôm nay trước khi mụ già lắm miệng đó quay trở lại. Thế nhưng, không hiểu vì sao cậu lại cảm thấy thật ấm áp và thoải mái, khiến cho cậu chẳng muốn tỉnh dậy chút nào. Cảm giác này cũng tuyệt vời giống như khi ta trầm mình trong một cái bồn tắm với nước pha vừa đủ nóng, rồi để mặc cho cả ý thức và giác quan mờ dần trong làn nước. Chỉ thêm một chút nữa thôi, cậu nghĩ rằng cứ tiếp tục nằm mơ về cha cũng không sao cả.
Cậu có thể nếm thấy vị của đất trong miệng mình.
Cảm thấy khó chịu, chàng trai bèn mở mắt.
Tuy nhiên, bất chấp ý định của cậu, vì lý do nào đó mà bên trái cậu hoàn toàn tối đen. Chàng trai cố gắng chớp mắt, nhưng rồi một cơn đau buốt nổ ra nơi mắt trái. Nằm nghiêng sang một phía, cậu nhìn sang bên phải và thấy một bức tường bằng đất ngay trước mặt.
“Gì thế này…?”
Bằng một cái vươn vai, cậu nhổm dậy và thấy thay vì nằm trên một tấm đệm, xung quanh cậu toàn là đất. Một nửa cơ thể cậu chìm dưới mặt đất… không, đúng hơn là nó đã bị chôn vùi xuống. Hoàn toàn không đùa tí nào, thực tế là cậu đang nằm ngay trong chính cái mộ mà mình đã đào lúc trước.
Phải rồi, mình đã ngất đi.
Trước khi kịp hiểu chuyện gì xảy ra bên trên, một đám đất được đổ xuống và phủ lên đầu cậu. “Waah, cái quái gì…”. Nhổ ra khỏi miệng một thứ vật chất kì lạ, chàng trai nhìn lên trên.
“Anh vẫn còn sống à?”, tiếng nói thoát ra từ đôi môi sắc hoa anh đào.
Lưỡi của chiếc xẻng, thứ nhìn giống hệt như cái mà cậu đã được nhận, dường như đang tỏa ra một màu bạc sáng như ánh trăng phản chiếu qua kim loại. Trên lưỡi xẻng kia là khối đất tiếp theo chờ đổ xuống. Nhưng kì thú hơn cả là cô gái đang cầm chiếc xẻng ấy và nhìn xuống chàng trai từ trên miệng hố.
“…”
Chiếc áo choàng màu xanh hải quân sẫm mà cô đang mặc trông y chang cái mà cậu nhìn thấy trước khi ngất xỉu. Thứ mà cậu đã thấy qua cái mũ trùm đầu chắc chắn thuộc về con người, mà thực ra, còn rất xinh đẹp nữa. Ít nhất là cậu cho rằng như thế. Và vì một lý do nào đó không phải nỗi sợ, ánh nhìn của cô ấy khiến cậu thậm chí quên cả hít thở.
Nhìn chàng trai đang bất động dưới hố bằng ánh mắt đầy bí ẩn mất một lúc, rồi nghiêng đầu sang bên, cô hỏi: “Hay vẫn cử động mặc dù đã chết?”
“… Cô đang nói về cái gì thế?”, chàng trai buột miệng trả lời trước câu hỏi vô cùng kì quặc ấy, thái độ cứng nhắc nơi cậu đã hoàn toàn biến mất.
Giọng nói của cô gái thật nhẹ nhàng và xinh đẹp, đôi mắt xanh thẫm dường như tràn đầy nghi hoặc, và tràn ra khỏi cái mũ trùm đầu của cô là mái tóc màu đỏ nâu mượt mà. Suốt 16 năm đời mình, chàng trai chưa bao giờ được nhìn thấy một sinh vật nào đẹp đến thế, và cậu nghĩ mình sẽ vĩnh viễn chẳng được thấy thứ gì đẹp hơn nữa.
… Đợi đã nào. Đừng nổi đóa lên chứ. Mày quên mày đang ở đâu rồi sao? Chàng trai tự vấn, ép đôi mắt của mình nhắm lại.
Cậu cố gắng trấn tĩnh trái tim đang đánh trống trong lồng ngực, với vô số câu hỏi nổi lên trong đầu.
Chẳng cần phải nói, biểu hiện của cô gái trông như thể cô đã không hề thấy cậu làm việc ở nghĩa địa trong mấy ngày qua. Mặc dù chỉ thoáng nhìn, cậu tin rằng mình sẽ không thể nào quên được khuôn mặt cô. Nhưng cô ấy đang làm cái khỉ gì ở nơi này vào giờ này chứ? Không, cậu nghĩ rằng thật chẳng bình thường chút nào khi một cô gái một thân một mình trong nghĩa trang lúc đêm hôm khuya khoắt.
Cô ấy trông như con người, nhưng mình cũng không thể chắc chắn liệu cô ta có phải chỉ là một con ma xinh đẹp hay không.
Mà không, để bắt đầu thì…
“Cô là ai?” chàng trai đứng dậy và hỏi.
Đúng như cậu nghĩ, cô gái đội mũ trùm lại nhìn cậu với một ánh mắt bí ẩn. Trông cô không có vẻ gì là hoảng loạn hay sợ hãi, mà dường như biểu hiện một sự pha trộn giữa bối rối và chú tâm. Nó như kiểu khi cô đang đi trên đường thì tình cờ bắt gặp một con gà đang nở ra từ quả trứng vậy.
Ban đầu cô gái chẳng nói gì cả, nhưng ngay khi cậu bắt đầu băn khoăn liệu có phải sự im lặng kia là do cô không hiểu câu hỏi của cậu, cuối cùng cô cũng chịu mở lời, “Meria của Đại Nghĩa Địa.”
Mất một lúc để chàng trai nhận ra mấy từ ngữ đó là tên của cô.
“Meria?” Để xác nhận, cậu lặp lại tên cô gái, và cô liền gật đầu.
Chàng trai hỏi tiếp, “Cô đang làm trò gì ở nơi này giữa đêm khuya thế?”
Cô gái trả lời, “Dĩ nhiên phải vậy rồi, vì tôi là người giữ mộ.”
Như thể lời giải thích của cô chỉ có vậy, cô gái… Meria không nói gì thêm nữa.
Không thể tiếp tục lặng thing mà nhìn cô được nữa, chàng trai ngoảnh mắt đi và quyết định tập trung vào việc trèo ra khỏi đây. Khi đang tìm cách leo lên cái hố với độ sâu bằng cả chiều cao của cậu, chàng trai nhận ra những dấu chân lộn xộn nơi cậu bị mất thăng bằng và ngã lúc trước.
Dường như vào cái lúc cậu nghĩ Meria là một con ma và cố gắng bỏ chạy, cậu đã ngã, đột nhiên bị đập đầu và bất tỉnh nhân sự. Có lẽ đó cũng là lý do cho cơn đau cứng trên cổ cậu. Thật chẳng có thứ gì lại khó chịu hơn cái đau kiểu ấy. Dù sao thì, sự thực là cô gái hầu như chẳng buồn để ý tới cuộc vật lộn của cậu khiến cho da cậu nóng bừng. Cứ thế, với khuôn mặt đỏ ửng, chàng trai trèo lên thành hố.
Khi đôi chân cậu cuối cùng đã chạm tới mặt đất, cậu đứng dậy và thấy mình đang nhìn cô gái – người mà cũng đang nhìn lại cậu. Đứng cạnh nhau, cô chỉ cao tới ngực cậu. Với con gái mà nói thì cậu cho rằng chiều cao của cô khá bình thường.
Họ có lẽ bằng tuổi nhau, hoặc cô trẻ hơn cậu một chút. Thân hình nhỏ nhắn của cô từ đầu đến tận mắt cá chân được bao phủ bởi chiếc áo choàng màu xanh hải quân sẫm, và ngoại trừ khuôn mặt thì chỉ có đôi bàn chân trắng ngần để lộ ra ngoài không khí.
“… Còn anh là ai?” cô gái hỏi, nghiêng đầu sang bên.
Hình ảnh cậu phản chiếu qua đôi mắt của cô, nó trong veo và xanh thẳm tựa như mặt hồ lặng sóng.
Anh là ai?
Câu hỏi ấy cùng ánh mắt của cô như đâm thẳng vào sâu tận tâm can của chàng trai.
Vậy thì… rốt cuộc… mình là ai nhỉ? Cậu tự hỏi mình nên trả lời thế nào, và rồi một đống những ứng cử viên tiềm năng lướt qua tâm trí cậu.
Con trai thứ ba của một thợ đục đá, một tên chuột chũi chiến trường, một kẻ giết cấp trên, tù nhân số 5722, còn bây giờ thì là tay đào mộ không tên. Mỗi cái tên ấy đều chính xác và đều chắc chắn đại diện cho cậu.
Nhưng…
Bản thân mình muốn được gọi là gì?
“Muoru”.
Tên thật của cậu, thứ đã bị tước đi.
“Tên tôi là Muoru Reed.”
Đó là tên mà cha đã đặt cho cậu khi mới sinh ra.
Mấy từ ấy khác hẳn so với đống đất trong miệng lúc trước. Cậu có thể phun nó ra mà không hề cảm thấy khó chịu hay kì quái.
Nghĩ lại thì, cái tên đó quả là ngớ ngẩn. Nhưng tới chừng nào mà kí ức của một người chưa biến mất, việc cướp đi tên của họ là không thể.
“Muoru, phải không?” Như thể bắt chước cái biểu hiện chết lặng vừa rồi của chàng trai, Meria nhắc lại tên của cậu.
Chàng trai lùi lại một bước, giữ một chút khoảng cách với cô gái.
Và rồi, như để bảo vệ trái tim của mình, cậu đưa tay túm lấy ngực.
Tại sao mình lại kinh ngạc đến thế khi cô ấy nói ra tên của mình chứ?
Thật ngạc nhiên rằng chàng trai đã bị sốc chỉ bởi vì một điều như thế, cậu buộc phải lục lọi trí óc mình để tìm kiếm nguyên nhân. Có lẽ, mặc dù cậu có thể nói nó ra, nhưng bản thân đã hoàn toàn quên cái cảm giác được nghe tên của chính mình.
Chắc chắn là vậy rồi. Chỉ có thể là lý do ấy.
Cô gái lại nghiêng đầu sang bên, mái tóc óng ả khẽ đung đưa trước ngực.
“Vậy thì, anh đang làm gì ở đây?” cô hỏi.
“Tôi chỉ… đi tii…”
“…”
“…”
“Tii?” Meria hỏi lại bằng một giọng nói dễ thương, lặp lại từ mà chàng trai do dự nói ra.
“Giải quyết nỗi buồn”, Muoru sửa lại, ngực cậu thắt chặt.
“Phải rồi.” Cô gái gật đầu, vừa lúc ấy, trong khoảng không giữa mũ trùm đầu và mái tóc của cô, cậu thoáng thấy hình ảnh cái xương đòn gánh gầy gò.
“À, ừm…” Cậu lầm bầm, cố tìm thứ gì đó để nói.
Mặc dù hẳn phải có rất nhiều thứ nên hỏi, nhưng ý nghĩ trong đầu chàng trai cứ chầm chậm quay cuồng khiến cho cậu chẳng thể gọi ra được cái nào. Đưa mắt nhìn cô gái, cậu có thể cảm thấy tâm trí mình hơi tê liệt, giống như khi cậu say rượu hay phê thuốc vậy. Dù sao thì đây cũng là lần đầu cậu được trải nghiệm cái cảm giác này chỉ bằng việc nói chuyện với ai đó, thật còn hơn cả khó chịu.
Đột nhiên, cô gái quay người đi.
“Tạm biệt…” Meria nói, rảo bước đi cứ như thể đã hoàn toàn hết hứng thú với cậu.
“C…chờ chút đã!” Muoru hấp tấp kêu lên.
“…?”
“Không… chỉ là…”, dù rằng thật tốt khi cậu đã kêu cô dừng lại, nhưng như thường lệ, cái đầu óc chỉ hoạt động có một nửa của cậu chẳng nghĩ được thêm cái gì để nói tiếp. Cô gái quay đầu lại, với chiếc mũ trùm che mất nửa khuôn mặt, cô nhìn thẳng vào Muoru không chớp mắt như thể họ là hai đứa trẻ đang thi xem ai nhìn vào mắt nhau được lâu hơn.
Chàng trai không biết liệu có phải cô đã quá tận tâm hay không, bởi mặc cho cậu không thể thốt lên từ nào, cô vẫn đứng im chờ đợi cứ như thời gian đã ngừng trôi vậy.
“… Cái xẻng, nó là của tôi. Xin lỗi nhưng cô có thể để nó lại không?” Chỉ tay vào cái xẻng, cậu hỏi bằng một giọng thiếu tự tin.
Meria nãy giờ vẫn cầm trên tay cái xẻng của cậu. Sau khi nghe nói vậy, cô như thể cuối cùng cũng nhớ ra, và nhìn xuống tay mình. Thế rồi cô liếc sang cái hố của Muoru, cái mà cô đã định chôn cậu trước đó, trước khi quay trở lại nhìn vào chàng trai.
“Anh đã đào cái hố đó sao?” cô hỏi.
Chàng trai gật đầu, và Meria, với một biểu hiện thật khó hiểu trong ánh mắt, tiếp tục nhìn chằm chằm vào cậu.
Chẳng hề cảnh báo trước, cô vội vã chạy về phía cậu, gần như suýt ngã vì tốc độ. Nhưng ngay trước khi đâm vào chàng trai, cô tự dừng mình lại cách cậu khoảng một bước chân và đưa ra cái xẻng sắt. Theo phản xạ, cậu nhận lấy nó. Vẫn như trước, cậu chẳng nghĩ ra được câu bông đùa nào.
“Cảm ơn”, cậu nói.
Mặc dù nghĩ rằng lịch sự là không cần thiết khi nhận lại món đồ vốn thuộc về mình, nhưng dù sao, cậu cũng chẳng thể nói được điều gì khác.
“…”
Chẳng rõ vì sao, Meria vội chớp mắt. Khi cô nhìn vào cậu, chàng trai có thể thấy hình ảnh phản chiếu của vầng trăng tuyệt đẹp trong mắt cô. Thế rồi đột ngột, cô tự tách mình ra xa khỏi cậu như muốn thoái lui.
“Tạm biệt…”, cô gái nói, “… mmm… Muoru?”
“Ừm…”
Trong khi chàng trai vẫn đứng như trời trồng, Meria bước đi không ngoảnh lại.
Muoru nhìn chăm chú lên hình dáng chiếc áo choàng của cô, nhưng rồi một lúc sau, nó chìm vào trong bóng tối như một hồn ma hay gì đó tương tự.